Tuyển tập văn mẫu
  • Trang chủ
  • Văn mẫu tiểu học
    • Văn mẫu lớp 2
    • Văn mẫu lớp 3
    • Văn mẫu lớp 4
    • Văn mẫu lớp 5
  • Văn mẫu THCS
    • Văn mẫu lớp 6
    • Văn mẫu lớp 7
    • Văn mẫu lớp 8
    • Văn mẫu lớp 9
  • Văn mẫu THPT
    • Văn mẫu lớp 10
    • Văn mẫu lớp 11
    • Văn mẫu lớp 12
  • Những bài văn hay
  • Kinh nghiệm làm văn
Văn mẫu lớp 9

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù

Đăng bởi Thanh Bình Tháng Bảy 28, 2017

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù – Bài số 1

Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam. Nghiệp sáng tác của ông chia thành hai giai đoạn trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng, ngòi bút của ông thiên về phương châm “Vang bóng một thời-trụy lạc-xê dịch”. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là tác phẩm kiệt xuất trước cách mạng tháng Tám, đã khắc họa thành công hình ảnh Huấn Cao, một kẻ sĩ tài hoa, có tấm lòng thẳng thắn.

Loading...

Huấn Cao là một kẻ sĩ xả thân vì đại nghĩa, lên án và tố cáo sự trắng trợn của triều đình, ông bất chấp tất cả để chống lại triều đình mục nát, thối rữa. Huấn Cao trong mắt của bọn lính là một kẻ “ngạo ngược và nguy hiểm nhất”, nên đề phòng. ĐỐi với thầy thơ thì ông “văn võ đều có tài cả, chà chà” còn đối với người quàn ngục thì Huấn Cao là người “chọc trời quấy nước”, coi thường tiền bạc và bạo lực. Với những cách nhìn ấy, Huấn Cao là một người tài ba trong mắt của mọi người, là một kẻ tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung, toát lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn.

Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình ảnh Huấn Cao bộc trực, đầy hào khí, từng đường nét đều rất thoát phàm, rất độc đáo. Là một kẻ tù nhưng Huấn Cao dường như chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, ông có thể thét lên với bất cứ ai. KHông cần hành động nhưng khí phách của ông lại khiến cho mọi người nể phục.

Huấn Cao giữa chốn lao tù này còn được biết đến là kẻ sĩ tài hoa, người đời mến mộ bằng cái tên “cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp..” Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sung bái và ngưỡng mộ như vậy. CHữ của ông như “một báu vật trên đời”, ai có diễm phúc sở hữu chữ của ông chính là sở hữu một vật báu trong thiên hạ. Huấn Cao không biết ông quản ngục luôn có một ước mong được sở hữu chữa Huấn Cao, được treo chữ của ông viết ở trong nhà, chữ ông Huấn Caop đẹp và vuông lắm. Một con người tài đức vẹn toàn, một con người không chỉ tài hoa mà còn có cái tâm rất trong sáng và ngay thằng. Kỳ thực ông viết chữ đẹp nhưng chưa bao giờ “ép mình viết bao giờ” Đấy là cốt cách thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những người thực sự xứng đáng, những người có thể khiến ông ngưỡng mộ và khâm phục nhất.

Nguyễn Tuân thực sự rất tài, tài đến nối đọc từng câu từng chữ của ông người ta cứ ngỡ như ông đang vẽ nên một bức họa thật sinh động giữa chốn nhân gian về một kẻ sĩ đáng trọng như Huấn Cao.

Huấn Cao còn là một người trân trọng tìn bạn, mến mộ những con người có “chí nhớn” trong thiên hạ. Qua lời kể của viên thơ lại, ông đã biết được tấm lòng của viên quản ngục và ngưỡng mợ trước tấm chân tình cũng như sự yêu mến và khát khao có được chữ của ông. Ông xúc động nhận ra được con người có thú vui thanh tao giữa chốn gong cùm nhơ bẩn này “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Chỉ một cụm từ “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, Huấn Cao đã khiến cho người đọc không thể nén được cảm xúc. Một con người biết trân trọng cái đẹp, hướng về cái đẹp, đó là một lối sống hướng đến vẻ đẹp “Chân-Thiện-Mỹ”.

Hình ảnh cảnh cho chữ hiện lên ở cuối tác phẩm dường như là cảnh tượng khó quên nhất trong tác phẩm. Một cảnh tưởng khiến cho người đọc nhớ mãi. Cảnh cho chữ diễn ra không phải ở một nơi thanh cao mà lại diễn ra giữa chốn ngục tù, là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Hình ảnh ba con người hiện lên trong cảnh tượng ấy thật đẹp, thật lung linh, họ không còn là người tù, viên quản ngục nữa mà là những người yêu cái đẹp, tâm đắc với cái đẹp. Cảnh cho chữ ấy thật thiêng liêng và xúc động, sự gặp gỡ quá muộn màng giữa những con người yêu cái đẹp, yêu cái vẻ đẹp hoàn thiện nhất. Hình ảnh Huấn Cao vương xiềng xích, tung bút viết những chữ vuông vắn nhất thực sự là hình ảnh đẹp nhất, đáng ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Hình ảnh viên quản ngục “vái lạy” Huấn Cao và Huấn Cao đỡ viên quản ngục dây thực sự là hình ảnh ám ánh khi gấp trang sách lại. Thời khắc mong manh giữa sự sống và cái chết khiến cho người kẻ sĩ ấy thêm kì vĩ, lấp lánh hơn. Kẻ tử tù không thể có cốt cách như vậy, chỉ có anh hùng mới xứng đáng với cốt cách ấy. Và Huấn Cao là môt đấng anh hùng như vậy.

Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong, đĩnh đạc qua từng nét bút của Nguyễn Tuân thực sự khiến cho người đọc không thể rời mắt khỏi trang viết. Huấn Cao là biểu tượng của cái đẹp vĩnh cửu, của những gì hoàn hảo và kiên trung nhất. Một con người “khó kiếm” trong thiên hạ.

Thực vậy, gấp trang sách lại nhưng hình ảnh Huấn Cao vẫn hiện hiển trong trí óc của người đọc. Ông là hình ảnh tiêu biểu cho những anh hùng hiên ngang bất khuất giữa chốn nhơ bẩn, bất công của thời đại.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù – Bài số 2

“Vang bóng một thời” thực chất là sự nổi loạn của cái tôi tài hoa, khinh bạc chống lại xã hội phàm tục. Qua đó, Nguyễn Tuân đã thể hiện một khía cạnh của văn hóa cổ truyền dân tộc, về những con người tài hoa, nghệ sĩ, đôi chỗ còn thấp thoáng những nhân cách lớn, những khí phách ngang tang như Huấn Cao trong “Chữ người tử tù. Đây, có thể nói, là nhân vật hư cấu tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân trong cái dư âm vòn vang vọng lại của thời phong kiến đã qua. Qua nhân vật này, ông thể hiện gần như trọn vẹn cái tôi của mình. Một anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Cho nên mới nói nhân vật Huấn Cao được xây dựng rất thành công, rất đẹp, rất đặc sắc.

Là một nhà văn học theo “chủ nghĩa xê dịch”, ông coi “đi” là hình thức tốt đẹp nhất của sự thoát li, thoát li khỏi cái gò bó của cuộc sống hàng ngày, đi để “luôn luôn thay đổi thực đơn cho giác quan”, vậy nên những tác phẩm của ông thường mang những tính cách độc đáo, những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, những phong cảnh tuyệt mĩ. Những điều đó đều được kết hợp hài hòa trong truyện ngắn của ông, mà tiêu biểu là tập “Vang bóng một thời”. Được ví như “tờ hoa” của thời đại, những truyện ngắn trong đó mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã, những cách ứng xử giữa người với người đầy lễ nghi nhịp nhàng. Phải nói bút pháp của Nguyễn Tuân đã đạt đến trình độ điêu luyện mới có khả năng truyền tải cho độc giả những thuần phong mĩ tục không mấy gần gũi một cách sinh động, hài hòa nhất.

Huấn Cao, một nhân vật “văn kì thanh bất kiến kì hình”, xuất hiện trong tác phẩm lần đầu tiên qua cuộc đối thoại giữa Viên Quản Ngục và thầy thơ lại: “Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp phải không?”, đúng vậy “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Hay: “ngoài cái tài biết chữ tốt, lại cò có tài bẻ khóa và vượt ngục”, chính điều này cũng làm Viên Quản Ngục e ngại không ít: “Thầy liệu cái buồng giam đó có cầm giữ nỗi một tên tù có tiếng là nguy hiểm không?”. Chỉ mấy câu nói, chân dung sơ bộ của Huấn Cao đã tạo một ấn tượng nơi người đọc, một con người văn võ toàn tài, một vị anh hùng kết tinh, một đại diện cho cái đẹp. Lúc này đây, từ vài đường họa của Nguyễn Tuân, người đọc đã mường tượng trong đầu một con người hội tụ cả ba phẩm chất nhân, dũng, trí. Song vì sa cơ lỡ vận nên trở thành một tử tù. Dù vậy, nhân cách của ông vẫn không thể nhầm lẫn, đến thầy thơ lại phải thốt lên: “Tôi thấy những người có tài thế mà đi làm giặc thì đáng buồn lắm. Phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc”. Không ai đi khóc người dưng nhưng phải công nhận rằng chính cốt cách ngạo nghễ phi thường và tấm lòng trong sáng biết quý trọng cái đẹp của Huấn Cao đã động được đến tâm của người khác.

Và rồi, Huấn Cao xuất hiện trước cửa đề lao, một tên tù án chém chuẩn bị thụ hình, vậy mà cứ hiên ngang, không chút mảy may run sợ. Hành động dỗ gông đã cho ta thấy được sức mạnh phi thường và ý chí bất khuất của ông: “Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tản đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt”. Một mình ông mà có thể kéo cả năm người thì quả là sức mạnh ít ai sánh bằng. Huấn Cao là một nhà nho, thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng, một lòng một dạ theo triều đình. Nhưng không, Huấn Cao nào chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh nhung hoa áo gấm, thà làm giặc triều đình sống theo chính nghĩa mà mình vạch ra. Chí lớn không thành, thân mang tù tội nhưng cảnh đề lao không làm khuất lấp ngạo khí của Huấn Cao, mà qua đó nó còn góp phần làm nổi bậc uy phong, khí thế của ông.

Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lí của Huấn Cao trong những ngày chờ lãnh án. Một tù nhân án chém kề cận mà vẫn khinh bạc đến điều, không màn bận tâm đến những lời dọa nạt, khinh bỉ của bọn lính tốt. Ngay cả với gông xiềng, với cái chết mà thái độ ông vẫn lạnh lùng, dửng dưng thì thật sự là một người anh dũng. “Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”, thái độ thản nhiên như không của Huấn Cao càng khiến người đọc nể phục. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn tự do về tinh thần, “thân thể ở trong lao, tinh thần ỏ ngoài lao”. Ông điềm tĩnh nhận sự biệt đãi của Quản Ngục như một lẽ thường tình, tự cho mình cái quyền hưởng thụ đó vì đến trên đầu ông còn chẳng biết có ai thì việc gì phải bận tâm đến chút nhục tửu nhỏ nhoi này.

Đáp lại sự biệt đãi thân tình của Viên Quản Ngục vẫn là thái độ lạnh nhạt, thản nhiên, kín đáo bất cần lòng thương hại. Nhưng thái độ đó lại làm ngục quan thêm vài phần kính trọng, đến mức khép nép, khúm núm khi vào buồng giam hỏi sở nguyện của ông Huấn. Song ông chỉ nhận được một câu “bất cận nhân tình” của Huấn Cao: “Ngươi bảo ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Đấy có lẽ là câu nói thị uy nhất mà Huấn Cao đã nói. Ông làm ra khinh bạc đến điều, chờ đợi “những trò tiểu nhân thị oai”. Sự khinh bỉ, mỉa mai không giấu diếm như thể ông muốn đạp lên trên mọi bất công, mọi cái xấu xa đê tiện; đồng thời ném vào mặt xã hội bất lương, lừa dối ấy sự thách thức của mình. Có thể nói ở đoạn này, tính cách quật cường, ngang tàng của Huấn Cao được khắc họa rõ ràng nhất.

Nói thì nói thế nhưng “ngoài việc nghĩ đến chí lớn không thành, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục” khi không chỉ ông mà cả năm người bạn của ông cũng được biệt đãi như thế. Cũng khó thể trách, vì vốn là con người “chọc trời quấy nước”, trải qua bao nhiêu gian truân, Huấn Cao cũng có chút đa nghi khi giữa chốn xô bồ, nhơ nhuốc như lao tù này, lại có một người như Viên Quản Ngục. Biết đâu là sự tính toán, lòng người khó dò. Tuy nhiên, chi tiết này đã cho thấy ở Huấn Cao đã có sự dao động. Ở một góc nào đó trong lòng, ông đã dần thay đổi cách nhìn đối với Viên Quản Ngục hay rộng hơn là đối với thế giới đầy dối lừa này.

Dù là một người khó tính – “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”, nhưng Huấn Cao tuyệt đối không cố chấp. Nhưng Huấn Cao lại có một quan điểm vô cùng rõ ràng về việc cho chữ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Qua đó, ta cảm nhận sâu sắc rằng Huấn Cao là một bậc hào kiệt. Quyền thế, vàng ngọc không thể lay chuyển ông nhưng tấm lòng của quản ngục thì được. Lúc này, không còn cái gọi là hai con người ở hai chiến tuyến mà chỉ là hai tâm hồn đồng điều. Giờ đây cái dao động của ông đã hiện thực hóa, ông thực sự coi quản ngục là tri kỉ tâm giao. Con người ông chính trực là thế, khẳng khái là thế. Phải chăng cái chí tung hoành của một đời người đã hun đúc ông thành một con người hào sảng, nghĩa khí, thấu tình đạt lí.

Với quan điểm đó, Huấn Cao đã đồng ý cho chữ: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Khi ông nhận ra tấm lòng cùng sở thích cao quý của quản ngục, ông không còn thái độ thù địch mà còn ân hận vì mình đã “xuýt chút nữa phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Là một trượng phụ đội trời đạp đất, có lẽ với Huấn Cao việc đáng hổ thẹn nhất là phụ lòng người. Ông cho rằng đó là là một việc không thể chấp nhận, không thể tha thứ. Điều này chứng minh rằng Huấn Cao không chỉ văn võ song toàn mà còn là tài tâm vẹn toàn. Ở ông, ta thấy được sự hòa quyện diệu kì của khối óc và trái tim. Điều đó không phải là dâng nộp cái tài của một tên tử tù cho Viên Quản Ngục đang coi giữ mình mà là sự cảm kích trân trọng của người nghệ sĩ đối với kẻ liên tài, là sự đáp lại của một tấm lòng với một tấm lòng.

Trong cảnh buồng giam tối tăm chật hẹp, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có diễn ra: “Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Với tư thế ung dung, tự tại ấy Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là dòng chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chan chứa tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt của người đọc. Khác với chân dung đầy khí phách lúc đầu, giờ đây một Huấn Cao vẫn bệ vệ, oai phong hiện lên trong tâm trí người đọc nhưng lại lẫn chút bi thương. Một đời tài hoa, lỗi lạc nay lại trong chốn tù ngục mà để lại những nét chữ cuối cùng. Quả là có chút chạnh lòng.

Mặc dù thế, Huấn Cao vẫn thành tâm khuyên nhũ quản ngục: “Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên có chút khiếm nhã nhưng Huấn Cao lại không câu nệ tiểu tiết mà nói ra, xem chừng ông rất coi trọng Viên Quản Ngục. Chỉ có những người bạn thâm giao mới nói những lời từ tận đáy lòng như thế. Hẳn là sự cảm phục nhân cách cao thượng của quản ngục nên Huấn Cao mới không muốn để cho “người có tâm điền tốt và thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Một phần ông cũng không muốn cái đẹp tồn tại lẫn vào trong cái tạp nham, dơ bẩn của chốn thị phi nên mới khuyên quản ngục tìm về nới làng quê mà ở, tâm tịnh thì mới có thể thưởng thức cái đẹp.

Bằng nghệ thuật dựng cảnh ấn tượng, tình huống truyện độc đáo, Nguyễn Tuân đã tạo nên một không gian cổ kính, lung linh trên từng trang giấy, khiến người đọc ngỡ như chính mình bước vào không gian đó cũng như thế giới nội tâm nhân vật. Huấn Cao được ông xây dựng với sức hấp dẫn người đọc ngay từ đầu, và cứ thế, cuốn hút suốt chiều dài thiên truyện. Đó là sức mạnh nghệ thuật ở một nhân vật có lý tưởng. Cùng với thủ pháp đối lập độc đáo, tác giả đã dựng nên một khung cảnh sống động, chân thực khi sử dụng ngôn ngữ giàu tính tạo hình. Khả năng hư cấu tài hoa, uyên bác của ông làm người đọc bị cuốn hút vào tác phẩm một cách triệt để nhất.

Qua tác phẩm, Nguyễn Tuân đã truyền tải đến người đọc một quan điểm nghệ thuật hết sức rõ nét: nghệ thuật phải hướng đến cái đẹp mà cái đẹp phải xuất phát từ cái thiện. Đối với ông nghệ thuật chân chính là: chân – thiện – mĩ. Chân là chân thực, cái chân thực đó có lúc lại khiến người khác choáng ngợp, chẳng hạn như một người như quản ngục lại có phẩm chất và sở thích vô cùng thanh cao giữa nơi xô bồ, hỗn loạn như đề lao. Thiện là là lương thiện, văn chương chính là hướng đến cái thiện, có thiên lương thì người ta mới có thể cảm thụ cái hay, cái đẹp. Cuối cùng là mỹ – đẹp, cái đẹp ở đây không nhất thiết lúc nào cũng bóng bẩy, hào hoa như cách Nguyễn Du vẽ Thúy Kiều; đôi lúc những đường nét thô kệch của Thị Nở cũng là một cái đẹp theo cách vẽ gồ ghề của Nam Cao. Và Nguyễn Tuân cho rằng chỉ có sự kết hợp của cả ba yếu tố trên mới thực sự là nghệ thuật, đó là một quan điểm được đánh giá cao.

Trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”, Huấn Cao đã mang đến chốn lao tù, cho cái địa ngục sống này một ánh sáng huyền diệu, lung linh, chói lọi, soi sáng đạo lí làm người. Thiên lương cao đẹp của ông là một vầng hào quang tỏa sáng rực rỡ trên bầu trời đầy u ám của ngục tù. Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công nhân vật Huấn Cao – một con người tài hoa, có tài tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Qua đó, nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước. Tác phẩm thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo, trong nghệ thuật dựng cảnh, khắc họa tính cách nhân vật, tạo không khí cổ kính, trang trọng, trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù – Bài số 3

Vườn văn học Việt Nam, đặc biệt là phong trào văn học lãng mạn(1930-1945) toả ngát những bông hoa muôn màu, muôn sắc. Giữa vườn hoa ngàn sắc tía đó nổi lên một bông hoa ngát hương: Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân-tác phẩm viết về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng trong Vang bóng một thời truyện ngắn Chữ người tử tù có một giá trị thiêng liêng, nổi bật. Ai đã từng đọc Chữ người tử tù đều rung động cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khúât, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao (Huấn Cao), Huấn Cao là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí. Ông là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cap đẹp nhất.

Huấn Cao là một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ, vừa là người có nghĩa khí. Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài,có đức, văn hay chữ đẹp, sống trong giai đoạn của Nguyễn triều, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền, đả kích xã hội PK thối nát, bỉ ổi. Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát, khái quá lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa quyện với cái đẹp của khí phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy gian khổ, coi khinh cái chết. Tư thế của Huấn Cao hiên ngang lồng lộng toả sáng trên cái nền đen quánh của tù ngục. Nói đến vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao trước hết phải nhắc đến cái tái. Huấn Cao là một người viết chũa đẹp. Trong thị hiếu thẩm mỹ của người xưa từ Trung Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý và chơi chữ đẹp là biểu hiện của con người có tri thức, một vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn hoá truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người khát khao, thèm muốn. Ngào ra, Huấn Cao còn có tài bẻ khoá vượt ngục coi nhà tù như nơi không người, ra vào như chơi. Điều đó thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình PK mục nát. Tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để chọc trời khuấy nước. Nhưng trong cái xã hội PK bóc lột người, nhân tài như lá mùa thu ấy thì Huấn Cao hiện lên là một anh hùng thất thế. Nguyễn Du đã từng viết về Từ Hải-một anh hùng thời cổ: “Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn”.

Song vị hùm thiêng Huấn Cao này tuy có sa cơ, lỡ nghiệp nhưng Huấn Cao vẫn kiên cừơng, bất khuất, vẫn dũng khí. Do đó, người đọc không chỉ nhận ra Huấn Cao là một người có tài mà ông còn là người có dũng khí, hiên ngang trước cường quyền, trước một cái chết treo lơ lửng. Hết mực ca ngợi cái tài của Huấn Cao, đồng thời Nguyên Tuân cũng hết sức trân trọng cái tâm của Huấn Cao. Bởi Cái tâm kia mới bằng ba chữ tài(Nguyễn Du).

Cái tâm của ông cũng vuông lắm, cao khiết và đày sức chinh phục như nét chữ của ông vậy. Có lẽ phong cách tức là con người đã được thể hiện rất rõ ở đây.

Mặc dù viết chữ Nho đẹp lẽ ra ông phải trung thành với đạo thánh hiền, giữu mình theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với vua, một lòng một dạ theo triều đình. Nhưng không! Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh nhung hoa áo gấm, thà làm giặc triều đình sống theo chính nghĩa mà mình đã vạch ra. Sự nghiệp dang dở, bị bát, bị kết án tử hình nhưng ông vẫn không hề tỏ thái độ run sợ, không mảy may tiếc nuối, hối hận. Huấn Cao- ngôi sao Hôm chính vị ấy- bước vào ngục trong tư thế thật hiên ngang, khí phách ung dung. Trong con mắt của bọ lính ông thật cao thượng, bất khuất, khinh đời. Ngay cả với gông xiềng, với cái án tử hình sắp đến gần, thái độ của ông vẫn ngang tàn, lạnh lùng. Huấn Cao ung dung, lãnh đạm dỗ gông trước mạt bọn lính, không thèm chấp mấy lời đe doạ. Ông bình thản ăn những món ăn do quan ngục biệt đãi, coi như mình có quyền hưởng thụ, ông làm việc theo ý mình, hoàn toàn tự chủ. Ông ngước mát nhìn lên nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân, nham nhở. Cái nhìn hiên ngang đó không run sợ, không căm hờn, oán hận, không van xin, cầu khẩn. Đó là một cái nhìn của kẻ dám làm dám chịu.

Thậm chí ông còn khinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt cuả quản ngục: Ngươi hỏi ta muốn gì?Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.

Con người khuấy nước trọc trời chẳng biết nể sợ ai. Nừu trong đời thương trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ, nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ, thì khi sa vào chốn giam cầm thì mấy chén rượu, vài bữa cơm thịt của hai con người vô danh tiểu tốt ở chốn tù ngục bé nhỏ này làm sao lung lay được ông hay vì quyền uy mà làm ông run sợ. Thật đúng là nhân cách lý tưởng mà con người của ngàn năm qua vẫn ao ước. Cái thái độ khinh đời, ngang tàn đó phải chăng làm cho viên quản ngục ngây ngất, kính nể. Huấn Cao đã mang đén chốn lao tù, cho cái địa ngục sống này một ánh sáng ký ảo, huyền diệu, lung linh, chói rọi, soi sáng đạo lý làm người. Thiên lương cao đẹp của ông là một vầng hào quang toả sáng rực rỡ trên bầu trời đầy u ám của nhà tù.

Huấn Cao-vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng trí mà còn là một con người có trài tim nhân hậu. Khi biết thiện ý của quản ngục, Huấn Cao đã rất cảm động.

Từ đó, ta thấy ông Huấn là người có lòng bao dung, độ lượng, chia sẻ nỗi niềm cùng với hai người bạn bạn mới mà suýt nữa ông đã đánh mất: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người thầy quản đay lại có cái sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữ ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Sự biệt đãi bằng vật chất và thái độ ân cần không làm cho trái tim sắt đá kia mềm lòng. Chính cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài và những sở thích cao quý, hướng về văn minh, văn hoá mới cảm hoá được trái tim dường như được đúc bằng thép ấy. Thái độ biệt nhỡn liên tài của Huấn Cao đối với quản ngục không phải sự liên tài sự trả ân đối với người đã đối xử tử tế, biết chơi chữ của mình, mà là sự trân trọng, cảm đọng trước một nhân cách Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Quản ngục sống giưũa bùn nhơ nhớp mà vẫn giữu được thiên lương, biết trọng người tài, kính cái đẹp. Đó đúng là một đoá sen trong bùn.

ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt diệu toả ra rất rõ ở cảnh Huấn Cao cho chữ. Nó bộc lộ trọn vẹn nhất vẻ đẹo nhân cách Huấn Cao. ở đây vẻ đẹp này toả hương thơm ngát hơn lúc vào hết. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, một cảnh tượng đày kịch tính diễn ra, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Đó là sự tương phản giữa một bên là một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tương đày mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián với một bên là tấm lụa trắng tinh, căng phẳng và với ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực. Ba đầu người chăm chú trên một tấm lụa bạch nguyên vẹn.

Nó là sự trái ngược của sự tàn bạo, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của nền văn minh, văn hóa. Đó còn là sự mâu thuẫn giữa bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và cái sống, cái xấu xa đê tiện và cái trong trẻo cao thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân rất giàu tính tạo hình với trình độ nghệ thuật điêu luyện, sức sảo, gần đạt đến sự hoàn mĩ (Vũ Ngọc Phan).

Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực-bó đuóc của trí tuện, của niềm tin, của hy vọng và trong khung cảnh thật nghiêm trang, thật thiêng liêng này, Huấn Cao dồn hết tâm linh, sinh lực vào từng nét chữ. Ông không mảy may lưu ý gì đến cái xấu xa xa, bẩn thỉu đang tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, quyến rũ vào một sự vật:tấm lụa bạch nguyên vẹn. Đúng thế, ở đay chỉ có cái đẹp, cái cao thượng mới thực sự tồn tại. Chính tấm lụa trắng tinh này mà ông Huấn Cao đang cho ra đời những con chữ tuyệt tác ấy mới thực sự có sức mạnh. Ở đây không còn là một Huấn Cao tử tù nữa. Chỉ còn một Huấn Cao tự do nhất, sống động nhất. Cái giá treo cổ kia cũng không còn nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng về chân lý của cái đẹp. Ngôi sao sáng –Huấn Cao -đang phát quan bừng tỉnh cái không gian u tối, phá vỡ caí màn đem ngự trị ngàn đời ở đây. Huấn Cao đem đén nơi đay một thế giới văn hoá. Vẻ đẹp cao nhân đó đã làm cho viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đòng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Tuy nhiên, ở nhà ngục này có sự thay bậc đổi ngôi, có sự chuyển hoá vị thế, vị trí xã hội của con người. Nó noí lên một sự thật mà đày tính lãng mạn. Giờ phút này và tại nơi đay không phải do quản ngục làm chủ. Sức mạnh, quyền lực của cái đẹp và chân lý tồn tại trên đời, thể hiện sức mạnh, quyền uy theo cách riêng của nó.

Nó không khất phục người ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó. Nó không giày xéo áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại, nó vực con người ta đứng dậy, tự nguyện đi theo nó để hướng tới cái CHÂN-THIỆN-MỸ trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn. Và ở đây caí đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém, cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt con người (Đôxtôiepxki). Cái đẹp đăng quan, cái xâú xa đã phải chìm xuống nhường chỗ cho cái đẹp. Cái đẹp đã tồn tại, sẵn sàng và rất cần sự đánh thức cái thiên lương ở mỗi con người. Huấn Cao cho chữ như chuyển giao một nhân cách tự do, chuyển giao cái đẹp đẻ cái đẹp mãi sinh sôi nảy nở, đi vào cõi vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật Huấn Cao được khắc hoạ bằng ngòi bút lãng mạn cứ sừng sững hiên ngang hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù, phá vỡ cái cuộc sống đang tràn ngập màn đêm, ngột ngạt, trì trệ.

Phải chăng đó là quan niệm thẩm mỹ của Huấn Cao hay của là của chính Nguyễn Tuân: cái đẹp phải gắn với cái thiện không thể ở chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành, bộc bạch giản dị đó của Huấn Cao đã khiến cho ngục quan cảm đọng vái người tù một cái và rưng rưng: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh.

Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người tích tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về thể xác nhưng lại tự do về tâm hồn. Hay nói khac đi, Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh lịch sử đang đày rẫy những cái xấu xa,tội lỗi, biểu tượng cho Thiên lương cao quý. Con người sống vượt lên những hiện thực tầm thường, tăm tối để toả sáng, đẻ vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lý dân tộc.

Dựng lên hình tượng Huấn Cao với vẻ đẹp rực rỡ tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp chật chội. Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm cảm phục sâu sắc đối với những người anh hùng xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp với việc khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn lãng mạn. Có thể nói Chữ người tử tù với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vơì của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mài vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù – Bài số 4

Ngoài khí tiết như đã trình bày ta còn thấy ở nhân vật huấn cao hình ảnh một con người mang sắc đẹp của tâm hồn cao quý, rất mực tài hoa. Huấn cao ca ngợi thiên lương chính là cái bản chất tốt đẹp của con người: “tôi bảo thật dấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở dã… Ở dáy, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi củng nhem nhuốc mất cả dời lương thiện đi”. Lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện “cái tâm” của nhân vật huấn cao vậy.

Bằng một số chi tiết rất tiêu biểu, nguyễn tuân cho ta thấy Huấn Cao vốn là người rất mực tài hoa. Thư pháp (phép viết chữ, nghệ thuật viết chữ hán) vốn là một thú cao nhã của người xưa, bên cạnh cầm, kì, thi, họa. Ông huấn có tài viết chữ đẹp, “vùng tỉnh sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh rất dẹp chữ ông huấn cao dẹp lấm, vuông lắm”. Cái tài hoa ấy ông chỉ dành riêng cho người tri kỉ: “dời ta củng mới viết có hai hộ tứ bình và một bức trung dường cho ba người bạn của ta thôi”. Và lần này như một lần ngoại lệ, ông cho chữ viên quản ngục, vì “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi”. Con người ấy đã thực hiện lời hứa với viên quản ngục, thể hiện cái tài hoa tuyệt thế của mình trong một khung cảnh đầy xúc động.

Bằng biện pháp đôi lập, nguyễn tuân đã làm toát lên chủ đề của truyện trong đoạn cuối. Cái cao đẹp (viết chữ vốn là một việc thanh cao, long trọng, với lụa trắng, mực thơm, nét chữ vuông tươi tắn) đôi lập với cái dơ bân (cảnh buồng nhà ngục tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, tường dầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián). Hình ảnh kì vĩ của người tù cổ deo gông, chân vướng xiềng dang dậm tô nét chữ đôi lập với hình ảnh co ro của thầy thơ lại run run bưng chậu mực và của viên quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm dánh dấu ô chữ (…), chắp tay vái người tù một vái. Tất cả thể hiện một ý nghĩa sâu sắc: cái đẹp có thể sản sinh từ nơi tội ác ngự trị, giữa mảnh đất chết (nhà ngục), bởi một con người tử tội sắp chết (tử tội huấn cao). Và lời khuycn viên quản ngục cũng mang ý nghĩa bô sung: cái đẹp không thể cùng sông chung với tội ác.

Qua những đoạn phân tích trên, ta thây rõ hình tượng cao đọp của nhàn vật. Hình ảnh nhân vật huấn cao trong chữ người tử tù tượng trưng cho cái đẹp tài hoa hòa hợp cùng cái đẹp của khí phách, tâm hồn. Nhân vật huấn cao cũng như nhiều nhân vật khác trong vang bóng một thời, nhất thiết là một con người tài hoa. Song ở huân cao, bên cạnh cái tài hoa, còn có vẻ đẹp khí phách của một con người có trách nhiệm đối với thời cuộc. Đó cũng là nét độc đáo của hình tượng nhân vật huấn cao so với các nhân vật khác trong vang bóng một thời.

Chữ người tử tù thật sự biểu lộ phong cách nghệ thuật độc dáo của nguyễn tuân. Đó là phong cách nghệ thuật mang tính cố kính qua hệ thống ngôn ngữ, lối suy nghĩ, cung cách đôi xử.., toát lên không khí của một thời nay đã thành vang bóng. Nghệ thuật ấy cũng mang tính hiện đại với những đoạn phân tích những ý sáu kín, diễn biến tâm lí nhân vật một cách tinh tế. Tác phẩm chứng tỏ cây bút nguyễn tuân già dặn, tầm hiểu biết sâu rộng, sắc sảo. Nhân vật huấn cao hiện lên trong truyện với một tôn sùng của nguyỗn tuân trong hoàn cảnh đất nước bị nô lộ. Đáy sự giải bày kín đáo niềm "… Khát khao theo đuổi một lí tưởng cao cả củaa người thanh niên nguyễn tuân khi mới bước chân vào đời” (trường chinh).

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù – Bài số 5

Nhà văn Pauxtopki từng khẳng định: “Nhà văn là người dẫn đường đến xứ xở của cái đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp”. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có một lí tưởng riêng. Nếu Thạch Lam đưa người đọc đến với thế giới cái đẹp dịu dàng, êm đềm mà u buồn, man mác thì Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ tận hiến suốt đời cho cái đẹp lại dẫn ta đến thế giới thanh cao, sang trọng, lịch lãm mà cổ kính. Trong thế giới nghệ thuật độc đáo ấy của Nguyễn Tuân nổi bật lên hình tường Huấn Cao – nhân vật chính của “Chữ người tử tù”, một nét son chói lọi trong văn nghiệp của Nguyễn Tuân

Là một người nghệ sĩ coi cái đẹp là một tôn giáo, giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, trước Cách mạng, bất mãn xã hội Tây tàu nhặng xị, Nguyễn Tuân trở về quá khúe kiếm tìm, nâng niu nhữnng vẻ đẹp còn vương xót lại. Trong hành trình đi tìm kiếm cái đẹp “Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân chợt phát hiện ra không gì đẹp bằng những con người tài hoa tài tử. Nổi bật trong lớp người tài hoa ấy là danh sĩ Cao Bá Quát, một nhà Nho uyên bác, một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà thư Pháp kiệt xuất. Dựa trên nguyên mẫu về danh sĩ Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên hình tượng Huấn Cao – một nhân vật đẹp và sang nhất trong cuộc đời Nguyễn Tuân. Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, tài tử, Huấn Cao còn là một đấng anh hùng. Ở Huấn Cao có sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp của tâm hồn nghệ sĩ và khí phách của trang anh hùng hào kiệt.

Nghệ thuật thư pháp là một bộ môn nghệ thuật cổ xưa. Một nghệ sĩ thư pháp đòi hỏi một tay bút tài hoa điêu luyện, với những nét chữ rồng bay phượng múa, một học vấn uyên thâm, một cốt cách thanh cao. Với những đòi hỏi khắt khe như thế, thật ít nghệ sĩ dám theo đuổi bộ môn nghệ thuật thư pháp cao siêu. Thế mà Huấn Cao dám dấn thâm và tận hiến đời mình cho nghệ thuật thư pháp và trở thành người nghệ sĩ tài hoa tột bậc. Huấn Cao có tài viết chữ nhanh, đẹp, vuông. Hơn thế nữa, mỗi con chứa đựng cả hoài bão khát vọng của người nghệ sĩ. Danh tiếng của Huấn Cao lan truyền đến chốn ngục tù khiến cho những kẻ suốt đời tưởng chỉ biết đến đòn roi đánh đập, hành hạ, tra tấn cũng phải ngưỡng mộ. Đặc biệt đối với quản ngục. Ngay từ nghi đọc vỡ sách thánh hiền, ngục quan đã ấp ủ được treo ở nhà riêng đôi câu đối do tay Huấn Cao viết. Vì ngưỡng mộ tài năng, sùng kính nhân cách của ông Huấn, quản ngụ đã có lối ứng xủa lạ lùng chưa từng thấy đối với kẻ từ tù. Không chỉ tỏ thái độ kiêng nể kính trọng, ngục quan còn sẵn sàng hi sinh tất cả những gì vốn được coi là quý báu. Có được chữ của ông Huấn, quản ngụ vô cùng hạnh phúc, cảm động cung kính vái lạy người tử tù trong dòng nước mắt ngọt ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vẫn biết những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn có khả năng thanh lọc tâm hồn, cảm hóa con người nhưng thực sự hiếm có tác phẩm nào có sức cảm hóa mạnh mẽ diệu kì, lạ lùng chưa từng thấy như những con chữ viết của Huấn Cao.

Là người nghệ sĩ tài hoa tột bậc, đồng thời Huấn Cao còn là người anh hùng có khí phách phi thường. Nếu vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ Huấn Cao được miêu tả gián tiếp thì khí phách hiên ngang bất khuất được miêu tả trực tiếp qua hành động, ngôn ngữ. Là một nhà Nho có chí khí, Huấn Cao không chấp nhận cảnh sống cá chậu chim lồng, nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đời thối nát để mong vinh thân phì gia. Vì sự công bằng của xã hội, hạnh phúc dân lành, Huấn Cao nổi dậy chống lại triều đình. Sự nghiệp anh hùng không thành, Huấn Cao bị khép vào án tử hình. Trước cái chết cận kề, Huấn Cao không hề hối tiếc hay lo lắng, sợ hãi. Trái lại, Huấn Cao luôn tỏ rõ dũng khí hiên nganh, bất khuất. Bẻ khóa vượt ngục đã trở thành tài của Huấn Cao khiến quản ngục và thầy thơ lại thán phục. Bất cứ lời nói hành động nào của Huấn Cao dường như cũng toát lên khí phách hiên ngang, bất khuất của vị đại trượng phu. Tuy nhiên, nếu phải chọn một hành động điển hình cho khí phách ấy, nhiều người chọn hành động dỗ gông lúc nhập ngục. Đối mặt với bọn tiêu lại giữ tù, cai tù hống hách, bạo ngược, Huấn Cao không hêd khúm núm, sợ sệt như những tù nhân khác. Hành động của Huấn Cao có khác nào một cái tát khinh bỉ vào mặt bọn cai tù cặn bã. Dõi theo hành động, thái độ của Huấn Cao trong nhà giam những ngày cuối cùng, người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chẳng những Huấn Cao thản nhiên nhận rượu thịt – quà biếu của quản ngục coi đó là việc vẫn là trong hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Trước cường quyền không lùi bước, trước cái chết không chịu khuất phục, đó là khí phách anh hùng Huấn Cao. Khi thầy thơ lại ngập ngừn báo tin cho ông biết sáng sớm mai ông phải về kinh lãnh án tử hình, không một phút lo âu, không một giây sợ hãi, Huấn Cao đón nhận cái chết bằng nụ cười. Đó là nụ cười ngông ngạo của người sẵn lòng tin “giữ trinh bạch linh hồn trong bụ bẩn”. Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao đúng là trang anh hùng có khí phách phi thường

Nhà văn vĩ đại V.Hugo đã từng nói: “Trước bộ óc vĩ đại ta phải cúi đầu nhưng trước trái tim vĩ đại ta phải quỳ gối”. Học theo tư tưởng của văn hòa Hugo, trước hình tượng Huấn Cao, mỗi người đọc chúng ta ắt phải cúi đầu và quỳ gối. Bởi Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ tài năng siê biệt, một đấng anh hùng có khí phách phi thường mà ông còn là hiện thiên của nhân cách cao đẹp, thiên lương trong sáng vô ngần. Là một người nghệ sĩ thư pháp tài hoa tột bậc, những con chữ của Huấn Cao là một vật báu đối với bao người. Cả đời, Huấn Cao mới tặng chữ cho ba người. Không mềm lòng trước tiền bạc, quyền uy, trước sau Huấn Cao chỉ trân trọng tình tri âm, tri kỉ. Đến khi hiểu được ước nguyện của quản ngục, Huấn Cao chẳng những cho chữ mà còn mỉm cười mãn nguyện. Quả thật, không hạnh phúc sao được khi giữa thế giới ngục tù, tối tăm, bẩn thỉu ta lại bắt gặp một tấm lòng trong sáng, biết trọng người ngay, biết kính mến khí phách và tài năng. Tuy sẵn lòng cho chữ quản ngục nhưng Huấn Cao vẫn day dứt “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Ở trên đời này, khi mắc lỗi, hầu hết con người ta tìm cách trốn tránh và đổi lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh thế nên hành động ăn năn, hối hận là rất đáng quý chỉ có ở những nhân cách tử tế. Lại day dứt ân hận trước những sai lầm suýt mắc phải, những sai lầm chỉ mình mình biết, mình mình hay, chỉ có ở những nhân cách cao đẹp mới như vậy.

Kết lại truyện “Chữ người tử tù” là cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Không chỉ vậy, nó còn là bệ phóng hoàn hảo làm nổi hình nổi bật các nhân vật và nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đặc biệt ở cảnh cho chữ, ta thấy tài năng và khí phách của Huấn Cao. Vậy là, bằng tài năng bà tâm huyết, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao, sự hiện thân cho cái đẹp kì diệu cùng hình tượng quản ngục và cảnh cho chữ. Không chỉ “Vang bóng một thời”, mà “Chữ người tử tù” sẽ neo đạu mãi trong tâm hồn người đọc như một dấu son không bao giờ phai.

Thanh Bình tổng hợp

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù
5 (100%) 1 vote
Loading...

Có thể bạn quan tâm?

  • Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân – Văn hay lớp 11
  • Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều.
  • Phân tích bài thơ Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu.
  • Cảm nghĩ về truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
  • Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du
  • Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”
  • Tả cây chanh lớp 6
  • Nghị luận về số phận và tính cách của Lão Hạc
Loading...

Liên kết trài trợ

  • Văn mẫu hay nhất
  • Blog học trò
  • Nghị luận xã hội
  • Wiki văn mẫu
  • Văn mẫu tham khảo
  • Lời hay ý đẹp
  • Truyện cổ tích Việt Nam

Nhiều người quan tâm

  • cam nhan ve bai tho ngam trang
  • khoông có việc gì khó/ chỉ sợ lòng không bền/ đào núi và lấp biển/ quyết chí ắt làm nên tác giả của 4 câu thơ trên là ai tứ thơ được viết trong hoàn cảnh nào
  • cảm nhận nhân vật cô bé bán diêm
  • cau chuyen ve mot con vat nuoi co tinh co nghia
  • đóng vai nhân vật ông sáu kể lại câu chuyện
  • đóng vai ông sáu kể lại câu chuyện chiếc lược ngà
  • kể lại buổi ra chơi
  • cảm nghĩ về người thân trong gia đình lớp 7

Từ khóa tìm kiếm

  • Cảm nhận của em khổ ba Sang thu của hữu thỉnh
  • kể 1 câu chuyện cổ tích theo lời nhân vật tấm lớp 5
  • thuyết minh bánh tét
  • phân tich va phat biêu cua em ve bai tho di dương
  • thuyet minh ve tro keo co
  • thuyết minh về cây mai yên tử
  • nêu cảm nhận của em về bài thơ đi đường ngắn nhất
  • hãy tả lại trận bão lụt ở quê em
2019 - Tuyển tập những bài văn mẫu hay nhất.
DMCA.com Protection Status